Nông NghiệpNông Nghiệp Hữu Cơ

Nông Nghiệp Sinh Thái Trên Đất Đồi Dốc P2

Contents

Đất đồi dốc hay đất đồi trọc thường bị rửa trôi và khó canh tác.

Trồng cây gì đất sườn đồi có độ dốc trung bình và độ dốc cao ? Biện pháp khắc chế và canh tác bền vững trên đất dốc như thế nào ?

Hiện tại, nông nghiệp sinh thái hay nông nghiệp hữu cơ được áp dụng rộng rãi ở các nước tiên tiến châu Á và các nước phương Tây. Với sự ảnh hưởng của quyển sách “Cách Mạng Một Cọng Rơm” đã biên dịch nhiều thứ tiếng.

Quyển sách được bình chọn là quyển sách ảnh hưởng nhất trên thế giới. Với những kiến thức và kỹ thuật dựa theo thiên nhiên, giảm thiểu công việc của nông dân. Đồng thời tăng độ phì nhiêu của đất, tạo ra sản phẩm sạch và an toàn cho người tiêu dùng.

Kỹ thuật Canh Tác Bền Vững Trên Đất Dốc Theo Hướng Nông Nghiệp Sinh Thái

1. Cải tạo đất đã bị thoái hoá ở những vùng đất trồng đồi trọc bằng các loài cây che phủ có bộ rễ khoẻ và cây họ đậu cố định đạm

Cây có bộ rễ khoẻ sẽ giúp chúng ta:

  • Cải tạo lý tính của đất thông qua việc phá lớp đất rắn làm cho đất tơi xốp và thấm nước tốt hơn.
  • Bộ rễ ăn sâu sẽ tận dụng được dinh dưỡng ở các tầng đất (cây bơm dinh dưỡng) tạo ra sinh khối lớn phục vụ chăn nuôi và bảo vệ đất, chống xói mòn và cải tạo đất cũng như để sản xuất vật liệu che phủ tại chỗ.
  • Lưu thông dinh dưỡng, nước và không khí, giúp cây trồng phát triển bộ rễ để hấp thụ nhiều dinh dưỡng và nâng cao năng suất.
  • Tăng cường hoạt động sinh vật đất, làm giàu đất nhờ giun, dế, vì sinh vật cố định đam, phân giải lân và xenluylô.

Các loài cỏ đều có khả năng phá vỡ lớp đất rắn bề mặt nhờ bộ rễ khoẻ như cỏ Humi, cỏ Tín hiệu, cỏ Ghi nê, cỏ Ruzi.

Chúng có bộ rễ sum sê, phát triển mạnh nên khi phân giải sẽ làm cho đất tơi xốp hơn. Ngoài ra chúng còn có sinh khối lớn (50 – 70 tấn/ha) làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc, hoặc làm cho vật liệu che phủ đất.

Các loài đậu đỗ có triển vọng nhất là lạc dại, đậu mèo, muồng lá tròn kép, đậu stylo, rút dại, đậu kiếm, đậu nho nhe và một số đậu đỗ thực phẩm khác như đậu tương, đậu dải áo, đậu rồng, đậu ván, v.v..

Hiện nay chúng đang được tiếp tục thu thập và khảo sát kết hợp nhân giống các loài này để triển khai cải tạo đất, trừ cỏ dại và sản xuất thức ăn chăn nuôi.

2. Hạn chế xói mòn trên đất dốc bằng cây phủ đất

Việc tạo thảm thực vật che phủ đất sẽ giảm đáng kể hiện tượng xói mòn đất. Ngoài ra, cây che phủ đất còn có tác dụng tốt trong cải thiện cấu trúc và lý tính của đất. Đất được che phủ sẽ cho năng suất cao và ổn định  hơn.

Cây che phủ có thể được trồng thuần trên các bãi đất trồng, luân canh trong hệ thống cây ngắn ngày, các hàng đồng mức, trong vườn cây ăn quả, trong rừng thưa hoặc rừng mới trồng chưa khép tán.

3. Thay thế cày bừa làm đất cơ giới bằng các biện pháp sinh học

Điều này có thể đạt được nhờ sử dụng các loài cây ngắn ngày, mọc nhanh, có bộ rễ khoẻ, ăn sâu, cây cố định đạm. Bộ rễ khoẻ sẽ phá vỡ lớp đất rắn và tăng dung tích hấp thụ của đất, trai đổi oxy và nước. Bộ rễ ăn sâu sẽ khai thác các chất dinh dưỡng từ sâu trong lòng đất để tạo nên một lượng sinh khối lớn trên mặt đất (bơm dinh dưỡng).

Tiếp đó, cần sử dụng lượng sinh khối này để che phủ đất và làm thức ăn gia súc. Không được đốt mà phải sử dụng sinh khối này làm phân bón. Bằng cách làm này có thể phục hồi sức sản xuất của đất trong 3 năm.

Chức năng của các loài cây này là bảo vệ đất chống xói mòn,làm thức ăn gia súc, tái chế và luân chuyển dinh dưỡng, khống chế cỏ dại, kích động hoạt tính sinh học trong đất, kết quả là tái tạo hiệu quả sức sản xuất của đất.

4. Xen canh và luân canh

Tất cả các loài cây trồng, các loài cây ăn quả, cây công nghiệp, cây rừng đều có thể xen canh hoặc luân canh với các loài cây che phủ cải tạo đất và các loài cây ngắn ngày khác để tăng thu nhập.

a) Luân canh đậu mèo xuân và cây trồng vụ hè:

Trồng đậu mèo vào tháng 3, phá đậu mèo vào đầu tháng 6 bằng dao phát hoặc liềm, sau đó chọc lỗ tra hạt. Để tránh tác hại cho hạt và cây non, các lỗ gieo hạt cần phải để trống.

Nếu cần thiết, có thể bón bổ sung 30 kg đạm/ha (hay khoảng 2kg urê thương phẩm/sào) trước khi gieo để cây non mọc nhanh hơn. Sau đó cây sẽ hấp thụ các chất dinh dưỡng do phân huỷ lớp che phủ.

b) Xen canh ngô xuân với đậu mèo:

Để hạn chế cạnh tranh, đậu mèo được gieo sau khi ngô đã được 50 ngày tuổi. Sau khi thu hoạch ngô xuân, đậu mèo có thể được giữ lại để che phủ đất và lấy hạt cho vụ sau.

Nếu cần gieo ngô hoặc lúa mùa, cả thân đậu mèo và ngô được phát sát đất, chờ cho héo rồi chọc lỗ tra hạt. Có thể thay thế đậu mèo bằng hạt nho nhe, đậu dải áo, củ đậu để tăng thu nhập.

Tuy nhiên, do có sinh khối lớn hơn và mọc nhanh hơn, đậu mèo có khả năng cải tạo đất tốt nhất.

c) Mùa ngô xen đậu mèo:

Như đã nêu trên, đậu mèo được gieo sau ngô 50 ngày. Sau khi thu hoạch ngô, đậu mèo sẽ tiếp tục xanh cho đến tháng 1 năm sau. Đậu mèo có thể dùng làm thức ăn vụ đông cho trâu bò hoặc chỉ để che phủ và cải tạo đất.

Với cách làm này,hoa màu vụ sau sẽ sinh trưởng và phát triển tố, năng suất cao hơn trong khi đầu tư thấp hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ trồng cây lương thực ở vụ màu thì ở vụ xuân cần gieo bổ sung các loài cây họ đậu để duy trì lớp che phủ và tăng sinh khối  dùng để che phủ đất trong vụ mùa.

Nếu không làm như vậy thì cỏ dại sẽ mọc nhiều và gây khó khăn cho việc chuẩn bị ruộng để gieo mùa. Các loài cây đậu leo khác cũng có thể sử dụng như đậu mèo. Điều này phụ thuộc vào lựa chọn của nông dân, song cách làm là như nhau.

d) Ngô hoặc lúa trồng xen cây lạc lưu niên:

Lạc lưu niên (Arachis pintoi) là một loài cây họ đậu không leo mà chỉ bò lan trên mặt đất, có sức chống chịu sâu bệnh tốt và có thể sinh trưởng, phát triển trên đất nghèo dinh dưỡng; chịu che bóng tốt. Đây cũng là loài thức ăn gia súc có chất lượng cao.

Lạc lưu niên là một loài cây che phủ đất và diệt cỏ dại tuyệt vời. Nó được trồng trong các vườn cây ăn quả để cải thiện, bảo vệ độ phì của đất, còn được dùng để che phủ đất trồng ngô và lúa nương.

lạc dại
Lạc lưu niên còn gọi Lạc dại

Vụ màu năm 2002, chúng tôi đã trồng ngô trên ruộng lạc lưu niên 1 năm tuổi. Cách làm như sau: Cắt lạc lưu niên theo băng rộng 30- 40 cm rồi chọc lỗ tra hạt ngô vào hai mép các băng đã cắt lạc lưu niên. Sau 20- 30 ngày lạc lưu niên sẽ bò lan ra và phủ kín gốc ngô.

Kết quả thu được rất khả quan: Năng suất ngô đạt 40 tấn/ha mà không phải làm cỏ, làm đất. Dưới tán ngô, lạc lưu niên vẫn phát triển tốt và cho sinh khối lớn. Lạc lưu niên là cây lưu niên nên không phải trồng lại.

Rõ ràng trồng lạc lưu niên là một biện pháp đơn giản, giảm được nhiều công lao động, giải phóng phụ nữ để họ có thời gian giáo dục con cái hoặc làm các công việc tăng thu nhập khác và sản xuất mang tính bền vững cao.

Lạc lưu niên trồng bằng dây như dây lang, không tự phát tán nên không có nguy cơ phát triển quá tầm kiểm soát của con người.

e) Trồng sắn xen lạc:

Nông dân ta vẫn hay trồng xen sắn với một số cây học đật như đậu nho nhe, đậu tương, đậu xanh.v.v… Nhiều nơi cũng trồng sắn xen lạc song do năng suất các giống cũ thấp nên hiệu quả kinh tế không cho thu hoạch.

Vì vậy, gần đây nông dân nhiều địa phương chỉ trồng sắn chay. Trong khi đó, trồng sắn lại gây xói mòn đất nhiều nhất, nên sau khi trồng được hai hoặc ba năm là phải bỏ hoá đất.

Thực tế cho thấy diện tích trồng sắn ở nhiều nước, nhiều vùng đã giảm rõ rệt. Tuy nhiên, nhờ những thành tựu trong chọn tạo giống,hiện nay có nhiều giống lạc năng suất cao, chịu hạn và chịu bệnh héo xanh rất tốt. Ví dụ giống lạc MD7 do Viện KHKTTNN ViệtNamchọn tạo.

Nhiều giống sắn mới có năng suất vượt trội đã được đưa vào sản xuất cho phép áp dụng biện pháp trồng sắn xen lạc để vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ và gia tăng độ phì cho đất.

g) Kết hợp chăn nuôi với trồng trọt, trồng rừng:

  • Trồng cỏ và cây họ đậu để chăn nuôi và cải tạo đất

Hầu hết các loài cây nêu trong phần phụ lục đều là cây đa dụng. Chúng được trồng xen vào các vườn cây chưa khép tán hoặc đã khép tán; cây rừng, cây ăn quả và cây thuốc lâu năm đều có thể trồng kết hợp với cây che phủ để cải tạo bảo vệ đất và làm thức ăn chăn nuôi. Nhờ chống được xói mòn, cây trồng chính cũng phát triển tốt hơn.

  • Trồng cỏ trên các hàng đồng mức

Ở các địa phương có nhiều trâu bò và thiếu thức ăn thì cần thay các hàng đồng mức bằng các loài cỏ, đặc biệt là cỏ voi và các loài Brachiaria. Các loài cỏ này chịu được giá rét rất tốt nên đảm bảo vẫn có thức ăn gia súc chất lượng cao trong mùa đông.

  • Trồng cây thức ăn gia súc trong rừng thưa và các bãi đất trống

Hầu hết các bãi chăn thả hiện nay đều rất nghèo nàn về thành phần thực vật cũng như về sinh khối, chủ yếu chỉ có cỏ may. Cần trồng cỏ chất lượng cao  để nâng cao chất lượng và năng suất bãi chăn thả. Tuy nhiên, cần có kế hoạch sử dụng hợp lý, tránh chăn thả quá mức để cỏ trồng có khả năng phục hồi. Tốt nhất là nên cắt cỏ cho trâu bò ăn.

5. Rút ngắn hoặc bỏ qua giai đoạn bỏ hoá

Thông thường qua 3 đến 4 vụ trồng lúa nương, nông dân trồng sắn và thu hoạch dần trong 3 năm, sau đó bỏ hoá. Có thể trồng xen sắn với các loài cây họ đậu như Stylo, Cassia spp, đậu nho nhe để bảo vệ và cải tạo đất.

Sau khi thu hoạch sắn có thể tiếp tục trồng cây lương thực. Cũng có thể cải tạo đất bỏ hoá bằng các loài cỏ chuyên dùng và cây học đậu để cải tạo thu nhập từ chăn nuôi trong giai đoạn bỏ hoá “tích cực” như vậy.

6. Quản lý tích cực đối với đất bỏ hoá

Trồng các loài cây bụi, cây gỗ mọc nhanh như keo tai tượng, keo lai, đậu công, đậu triều, cốt khí, muồng lá nhọn. Các loài cây này sẽ cải tạo đất nhanh trong vòng 3 đến 5 năm mà vẫn cho thu nhập (thức ăn cho người, gia súc, gỗ, củi, hạt).

7. Cải tạo đất nhanh bằng phương pháp hun đất

Trên thực tế nông dân thích đốt rừng và tàn dư cây trồng vì họ thấy rằng ở những điểm đốt, cây trồng mọc tốt hơn.

Một số nông dân đã dùng đất bùn đắp vào vỏ lò gạch, sau đó đem bón ruộng để giảm đầu tư phân bón mà năng suất cây trồng vẫn cao.

Hun đất tại chỗ cũng cho tác dụng tương tự. Cách làm như sau: Đào các rãnh sâu 30cm x rộng 30cm; lót đáy rãnh bằng cành cây nhỏ, rơm, cỏ khô dày 15- 20cm; rải một lớp rơm mồi dày 5cm sau đó lấp đất 10cm; trừ những điểm trống để mồi lừa cách nhau 1m; châm lửa đốt các mối rơm; chú ý để lửa bén tốt xuống dưới.

Sau đó lửa sẽ chay âm ỉ và om đất trong 2-3 ngày. Nhớ chọn những ngày nắng để lượng chất khô cháy hết. Có thể tranh thủ mùa khô để hun đất, sau đó trồng cây che phủ.

Đến vụ gieo trồng, cần phải tiêu diệt cây che phủ. Nếu là cây họ đậu thì cần dùng dao, liềm phát cây sát đất; nếu là loài cỏ 1 là mầm thì phải phan thuốc diệt cỏ (nên dùng Glyphosate không độc cho người, gia súc và tôm cá); 10 ngày sau thì chọc lỗ tra hạt dọc theo hai mép rãnh.

Cần duy trì lớp phủ và trồng xen cây họ đậu để tiếp tục cải tạo đất, nếu không cây trồng sẽ khó phát triển ở các vụ sau.

Không dùng cành cây to vì chúng khó cháy hết, nếu có cháy hết thì nhiệt độ đốt tăng cao ảnh hưởng xấu đến lý tính của đất.

Không nên liên tục hun đất mà phải thực hiện hun đất theo chu kỳ 4-5 năm. Tốt nhất chỉ sử dụng phương pháp hun đất sau khi đã được tập huấn kỹ để tránh rủi ro.

8. Đất quá dốc làm tiểu bậc thang

Đất càng dốc càng chóng bị thoái hoá. Làm tiểu bậc thang kết hợp che phủ đất sẽ khặc phục được hiện tượng này. Tiêu bậc thang còn có ích cho thâm canh vì giữ được phân bón, tạo thuận lợi cho việc chăm sóc và thu hoạch.

Cách làm như sau: Dọn cỏ dại và xếp sang bên cạnh; dùng bai, cuốc để san ruộng thành các tiểu bậc thang có bề mặt 30- 40cm. Phải làm từ dưới chân dốc lên đỉnh dốc để lớp đất mặt của bậc thang sau (ở trên) sẽ che phủ mặt bậc thang trước (ở dưới) và không bị dồn quá nhiều đất.

Dùng thân lá cỏ dại che phủ bề mặt rồi chọc lỗ tra hạt. Nếu cây mọc yếu thì phải bón thêm phân.

Trồng lạc lưu niên hoặc cỏ vào mép bậc thang để cố định bậc thang và tạo sinh khối che phủ đất. Khi cỏ mọc ở mép bậc thang mọc tốt thì dùng liềm cắt và phủ lên mặt, không dùng cuốc hoặc bai để làm cỏ.

Sau khi thu hoạch, giữ lại thân cây ngô, lúa để che phủ và cải tạo đất. Đến vụ sau, chỉ việc dọn cỏ và chọc lỗ tra hạt. Làm  như vậy năng suất ngô, lúa sẽ tăng dần theo thời gian.

9. Làm hàng rào sống, đào hào để bảo vệ đồng ruộng

Do sức ép của chăn thả tự do, việc bảo vệ đồng ruộng là rất quan trọng. Việc đào hào ngăn cách, xếp tường đá, dựng hàng rào xanh là những biện pháp hữu hiệu.

Nhờ được bảo vệ, chúng ta có thể luân canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất và ổn định năng suất.

Việc này không đòi hỏi nhiều về kỹ thuật mà điều cốt yếu là cách lựa chọn các loài cây găng (Randia spp), cây trạng nguyên (Euphorbia pulcherimao, cây dầu mè (Jatropha curcas), cây trôm (Sterculia spp), cây núc nác (Oroxylum indicum), cây vông (Erithryna spp), các loài keo (Acacia spp) cây tô mộc (Caesalpinia sapan), cây muồng cọc rào (Gliricilia sepium), cây cỏ voi (Pennisetum purpureum).v.v..

10. Trừ cỏ sinh học 

Dùng đậu mèo diệt cỏ tranh cũng như các loài cỏ khác.

Sau đó trồng ngô: Cắt cỏ tranh, chờ mọc 15- 20cm, phun Glyphosate (3 lít/ha), chờ 10 ngày, gieo đậu mèo.

Đậu mèo là cây mọc nhanh, khoẻ nên diệt cỏ rất tốt. Ngoài ra đậu mèo còn cung cấp nhiều đạm cho đất nên năng suất cây trồng vụ sau sẽ cao hơn và giảm đầu tư phân bón.

Dùng nhiều loài cỏ như các loài Brachiaria, cỏ Ghinê, đậu Stylo, Cassia… có giá trị sử dụng cao và cũng có khả năng che phủ tốt nên có thể sử dụng để tiêu diệt được các loài cỏ dại khác.

11. Trồng cây ưa bóng dưới tán cây ăn quả

Trồng lạc lưu niên, muồng lá tròn kép, stylo trong vườn cây ăn quả, vừa bảo vệ đất, vừa làm thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra có thể trồng cây thuốc, rau thơm, gia vị song cần phải nghiên cứu nhu cầu thị trường.

12. Trồng cây thức ăn gia súc quy mô hộ, giảm sức ép chăn thả tự do

– Trồng cỏ trên các bãi đất trống

– Trồng cỏ trong các hàng đồng mức

– Trồng cỏ quanh bờ ao

– Trồng cỏ trong rừng cây tán thưa, rừng mới trồng.

Ngoài các kỹ thuật nêu trên, còn rất nhiều cách làm phổ biến khác như trình bày ở phần I cũng như các kỹ thuật nông lâm kết hợp do các cơ quan nghiên cứu trong nước và quốc tế khuyến cáo.

Trong đó phải kể đến những đóng góp to lớn của Trung tâm nghiên cứu Nông lâm kết hợp quốc tế (ICRAF).

Điều quan trọng là nông dân phải được đào tạo và nâng cao năng lực để lựa chọn, thích nghi và áp dụng cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế xã hội ở địa phương của họ.

Có như vậy các kỹ thuật quản lý và sử dụng đất dốc nêu trên mới phát huy được tiềm năng và tác dụng của chúng trong việc xây dựng một nền sản xuất nông lâm nghiệp hiệu quả và lâu bền, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho nông dân miền núi, ổn định sản xuất ở miền xuôi và bảo vệ môi trường sinh thái.

 KẾT LUẬN

Trong bối cảnh dân số tăng nhanh, đất canh tác bị thu hẹp và để ứng phó với biến đổi khí hậu, chúng ta cần quan tâm bảo vệ tài nguyên đất và nước, đặc biệt là đất dốc. Như đã nêu trên, đất dốc hàm chứa rất nhiều tiềm năng phát triển, nhưng lại là hệ sinh thái rất dễ bị tổn thương, vì vậy cần phải có phương pháp tiếp cận tổng hợp và thân thiện môi trường. Gần đây phương thức tiếp cận nông nghiệp sinh thái (Agro-ecology) hay nông nghiệp bảo tồn (Conservation Agriculture – CA) đang được nhiều nước quan tâm nghiên cứu áp dụng, trong đó có ViệtNam.

Với sự hợp tác giữa Trung tâm hợp tác quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp vì sự phát triển của Cộng hoà Pháp (CIRAD) và Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) nhiều biện pháp kỹ thuật quản lý và sử dụng đất dốc hiệu quả và bền vững hơn đã được nghiên cứu, phát triển và chuyển giao vào sản xuất:

– Hạn chế xói mòn trên đất dốc bằng việc liên tục giữ cho mặt đất được che phủ đất bằng lớp phủ thực vật sống hay đã khô, chú trọng sử dụng tàn dư cây trồng để bảo vệ và cải tạo đất;

– Cải tạo đất đã bị thoái hoá ở những vùng đất trồng đồi trọc bằng các loài cây che phủ có bộ rễ khoẻ và cây họ đậu cố định đạm;

– Thay thế cày bừa làm đất cơ giới bằng các biện pháp sinh học;

– Đẩy mạnh xen canh và luân canh;

– Rút ngắn hoặc bỏ qua giai đoạn bỏ hoá, quản lý đất bỏ hoá bằng các biện pháp tích cực;

– Cải tạo đất nhanh bằng phương pháp hun đất;

– Đối với đất có độ dốc lớn, làm tiểu bậc thang kết hợp che phủ đất;

– Trừ cỏ bằng cây che phủ hoặc lớp phủ thực vật; 

– Trồng cây thức ăn chăn nuôi ưa bóng dưới tán cây ăn quả, trong rừng thưa để đẩy mạnh chăn nuôi nông hộ, giảm sức ép chăn thả tự do.

 Những kết quả thu được cho thấy quản lý đất dốc bằng tiếp cận nông nghiệp sinh thái là hướng đi tất yếu trong quản lý và sử dụng đất dốc bền vững.

Thực tế đã làm tăng đáng kể năng suất của các loại cây trồng trên đất dốc, giảm xói mòn và đa dạng hóa thu nhập cho nông dân.

Trong khi vẫn bảo tồn nguồn tài nguyên và cải thiện môi trường, góp phần xóa đói, giảm nghèo và đạt được mục tiêu an ninh lương thực cho miền núi.

 

Related Articles

Back to top button